Tác giả Duy Nhất sanh trưởng
ở Dầu Tiếng. Ngày co`n bé, anh đă theo
học ở trường Định Thành, từ trường
Đi`nh tới trường Quận. Sau đó anh vẫn tiếp
tục học ở Dầu Tiếng, theo học trường
trung học đệ nhứt cấp,Tiến
Đức cho tới khi hết lớp, anh mới rời Dầu
Tiếng để tiếp tục sự học. Anh lớn lên trong những năm khói lửa chiến
tranh của Việt
Nguyễn văn Hoà
Quê Tôi Thời
Thơ Ấu
Duy
Nhất
Quê Tôi xa cách nghi`n trùng
Ôi sao nhớ măi mái trường thân yêu
Thầy Cô, bằng hữu đâu rồi
Ghi sâu tâm tưởng thương hoài ngàn năm.
Cuộc
đời là một do`ng sông, ta trôi như con đo`. . . Ngày
hôm qua đă trôi đi, có chăng chỉ co`n lại những
kỹ niệm, những ky' ức của
thời thơ ấu. Và ngày hôm nay khi chúng ta
bước vào đời thi` những dư âm ngọt ngào
của ngày hôm qua vẫn co`n, nó sẽ sống măi bên ta.
Tôi cũng muốn gởi đến những
người bạn tuổi thơ ấu của tôi những
lời thân thương và cảm mến nhất.
Trước hết tôi muốn nhắc đến
bạn Nguyễn Văn Hoà, người bạn đă gắn
liền với tôi từ thuở thơ ấu. Tôi co`n nhớ
lúc co`n nhỏ tôi rất làm biếng ăn. Mẹ tôi thường
xách hai đứa ra đút cơm ăn chung
với nhau để tạo nên một không khí ganh đua bắt
buộc tôi và Hoà phải ăn nhiều hơn. Có lần tôi
thèm kẹo, Hoà bảo tôi mang em tôi đi đổi kẹo.
Tôi tưởng thật chạy ngay vào giường em tôi
đang ngủ, vội vả bế em tôi đi đổi
kẹo. May quá, mẹ tôi bắt gặp, thế là tôi bị
rầy và bị một trận đo`n nên thân. Chúng tôi lớn
lên hồn nhiên trong tuổi trẻ, chia phe, chạy trốn,
cút bắt, đánh đáo, tạc hi`nh,
bày ra đủ tro` chơi đặc biệt, miễn sao
dzui là được rồi. Hoà lớn hơn tôi vài tháng, thế
là phải cắp sách đi học trước tôi một lớp.
Thời gian sau, nhà tôi dọn xa hơn nhà Hoà khoảng vài
trăm thước, trong chu vi thánh thất
Cao Đài, gần tiệm thuốc bắc của ông thầy
Chanh. Nơi đây tôi bắt đầu học lớp
năm "Đồng Ấu" thế là coi như chúng
tôi chia tay một thời gian ngắn,
để lo tập đọc và đánh vần. Bẳng
đi một thời gian, 3, 4 năm sau gia đi`nh tôi lại
dời về ngả ba Cây Rừng, chúng tôi lại liên lạc
với nhau, nhưng Hoà trên tôi một lớp, hai đứa
đón nhận những bạn mới cùng lớp với
nhau.. Thành ra thỉnh thoảng
chỉ chào hỏi nhau, chúng tôi ít có dịp chơi chung với
nhau. Ngày tháng trôi qua chúng tôi lên trung học
lại càng xa nhau hơn nữa. Vi` sau khi trường
trung học cấp I, Tiến Đức đóng cửa,
chúng tôi khăn gói từ giả Dầu Tiếng, lên Saigon học,
mỗi đứa một nơi, chỉ gặp lại nhau
vào dịp ba tháng hè. . .
Trong
những năm trung học, chiến tranh Việt Nam đă
bắt đầu xôi động và ác liệt, với lệnh
tổng động viên, bạn tôi đă chọn kiếp sống
biển cả hải hồ của Hải Quân, tôi chọn
kiếp sống không gian, đi mây về gió, Không Quân. Oan
nghiệt thay những năm cuối cùng của cuộc chiến
1970-1975, chúng tôi nằm trong quỉ đạo quay cuồng
của vận nước, đành phải chấp nhận
thua cuộc và tan hàng, mỗi đứa một nơi để
đi ti`m tự do. Trong sự ti`nh cờ
tôi lại có dịp gặp lại bạn tôi trên xứ
người. Thật là một nổi vui mừng và may mắn.
Đúng là quả đất tro`n, tất cả
đều đồng qui tại một điểm.
Trở lại thời thơ ấu đi học
nơi trường đi`nh, tôi có ba khuyết điểm
là nhát đo`n, nhát gái, và ưa nghịch ngầm. Tôi co`n nhớ khoảng
năm 1955 tôi vào lớp năm, vi` ba tôi
làm giấy khai sanh cho tôi trể nên tôi vào lớp chậm
hơn ba tháng. Tôi nghỉ rằng có lẽ mi`nh
sẽ là thằng lớn nhất trong lớp, nhưng không
ngờ lại có những người bạn lớn
hơn tôi đến 5, 6 tuổi. Lớp tôi học là lớp
đồng ấu do thầy giáo Lắm phụ trách. Thầy có tật nơi chân. Thầy
rất nghiêm và dữ. Buổi đầu tiên nhập
học, tôi thấy rét ngay liền, khi thấy một hàng
các bạn cùng lứa với tôi đang quỳ dưới
bảng viết, và đang xoè tay ra cho thầy dùng thước
bảng nạp vào. Lúc đó thâm tâm tôi suy nghỉ: "Không
khá nổi, một là ta phải cố gắng học hành,
hai là ta nói với cha mẹ xin học trường
khác." Nhưng giải pháp xin học trường khác
không bao giờ xảy ra được, vi`
cả vùng Dầu Tiếng, chỉ có trường này mà
thôi. Nếu không học thi` ở nhà. Vi` thế tôi phải chấp nhận giải
pháp cố gắng học hành để khỏi bị
ăn đo`n của thầy giáo Lắm.
Rồi
buổi ban đầu cũng qua đi, tôi làm thân với số
bạn bè mới cũng như cố gắng học hành
để khỏi bị phạt. Nhờ tập dợt nhiều
ở nhà nên chữ viết tôi rất đẹp.
. . Lúc sau thầy thương tôi, thường kêu lên bảng
đọc bài và viết bài lên bảng. Khi
được thầy thương mến tôi đâm ra nghịch
ngợm. Tôi co`n nhớ một buổi sáng cuối
năm học, nghĩa là tôi sắp lên lớp tư, tôi lén
vào lớp học thật sớm, trong trạng thái hồi
hộp và run run, tôi dùng tay trái viết lên bảng, vi` biết
rằng nếu viết bằng tay phải, thầy sẽ
nhận ra tuồng chữ của tôi, với y'- định
sẽ viết: "Thầy Giáo Quẹo" Xui cho tôi, vi`
run quá, tôi quên không biết đánh vần chữ "Quẹo"
thành ra tôi chỉ viết được hai chữ "Thầy
Giáo." Xoay sở không biết làm sao thuận tay phải, tôi vẽ nguệch ngoạc một
người cẳng thấp, cẳng cao, trong đó cẳng
phải cong cong giống như chân của Thầy. Tôi thản
nhiên bước ra cửa lớp và đến hàng thức
ăn, ngồi ăn sáng một cách khuây khoả, coi như
bi`nh thường, như mọi ngày. Sau
ba hồi trống trường, tôi lặng lẽ bước
vào lớp học. Thật là cảnh tượng một lớp
học ngột ngạt, yên lặng như tờ. Các bạn
tôi, người nào cũng gục mặt dưới bàn,
tôi cũng trong hoàn cảnh đó. Thầy hỏi: "Em nào
viết lên bảng những chữ và hi`nh
này? Đứng lên nhận lỗi." Bạn
nào cũng yên lặng, không ai đứng lên nhận lỗi
cả. Thầy nói: "Cha, tụi bây ngon quá hen." Nhi`n lên bảng một lát, Thầy gọi
ngay Go`n, bạn tôi, lên bảng quỳ gối trước.
Có lẽ vi` nét chữ tay trái của tôi giống nét chữ
của Go`n. Hơn nữa Go`n là thằng bạn chịu
đo`n và li` nhất lớp. Thế là Thầy đập
vào tay và mông Go`n khoảng 20 cái thước
bảng. Go`n không khóc, không phân trần, thật là oan và tội
nghiệp cho bạn tôi. Viết ra đây sau 48 năm trôi
qua, tôi không biết Thầy và bạn ở phương trời
nào, "cho em có lời tạ lỗi cùng Thầy và bạn."
Những
năm tiểu học, cuộc sống êm đềm như
do`ng nước trôi. Tôi cố gắng học hành để
khỏi phụ lo`ng cha mẹ và cũng một phần tôi sợ
cây thước bảng của các thầy đáp lên tay. Sợ nhất là thầy Hoà, nhưng may mắn
là tôi không bị đo`n của thầy trong suốt niên học.
Dễ thương nhất là cô Mai, thầy Chưởng,
thầy Cơ mà tôi luôn luôn có một cảm ti`nh và kính mến riêng biệt.
Vào
những dịp Tết Trung Thu, trường hay tổ chức
cộ đèn và chấm điểm cho những đèn học
sinh nào lớn và đẹp nhất trong đêm đó. Bọn
chúng tôi, Cường, Minh, Tâm, Bôn, Nhân chia phe ra đứng
răi rác phía sau của đoàn rước đèn, lợi dụng
tranh tối tranh sáng, dùng những viên sỏi, chọi vào những
ngọn đèn to và đẹp nhất đêm đó, làm cho
đèn của họ bị rách nát. Cũng may mà không có ai bị
thương cả. Thật là một tro`
chơi vô y' thức và nguy hiểm của chúng tôi thời bấy
giờ.
Những
khoảng thời gian tôi lên lớp nhi`, lớp
nhất, và trung học cấp một, tôi lại có dịp
học chung với những bạn gái. Tính ti`nh
tôi rất rụt rè và nhút nhát, mỗi lần có dịp các bạn
gái hỏi bài vở, tôi thường bị các bạn trai
trêu chọc vi` tôi chết nhát. Chưa nói
được gi`, khuôn mặt tôi đă đỏ gay
như gấc. Tôi muốn nhắc tới những
người bạn xưa cùng lớp với tôi ngày đó
như Ngọc, Nữ, Kim Hoàng, Hanh, Thu, Ánh, Bích Loan,... và v.v....
nếu các bạn đọc nơi trang này, xin các bạn thứ
lỗi cho, cũng vi` tính nhút nhát mà tôi gần như trở
thành kém thân thiện với các bạn.
Ôi
những kỹ niệm vui đẹp nơi quê nhà, biết
bao giờ tôi ti`m lại được! Có
chăng chỉ là qua những giấc mơ. Cách
đây không lâu, tôi có dịp đọc một đoạn
kinh Bát Nhă của nhà Phật. Tôi nhận thấy và ti`m ra cả
một triết ly' thâm sâu và chí ly', trong đó chỉ có tám
chữ bao gồm tất cả sự hiện hữu,
"có" và vô thường, "không", đó là: "Sắc
tức thị không, không tức thị sắc." Quả thật có những cái gi` hàng ngày trước
mặt ta, nhưng không bao giờ ta ti`m và thấy được.
Ngược lại có những sự kiện đă trôi qua,
ta lại trông thấy một cách rỏ ràng như trước
mắt ta.
Giờ đây gần nữa thế kỹ
trôi qua, bao nhiêu vật đổi sao dời, lo`ng tôi lúc nào cũng
hướng về quê hương yêu dấu. Vi`
quê hương mỗi người chỉ có một, như
là chỉ có một mẹ mà thôi. Tôi muốn mượn mấy
vần thơ của thi sĩ Đổ Trung Quân trong
tựa đề "Bài Học Đầu Cho Con"
để gởi đến Thầy, Cô, bạn hữu và
đồng hương.
Quê hương mỗi người chỉ một
Như chỉ là một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người.
Quê hương là gi` hở mẹ?
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gi` hở mẹ?
Ai đi xa cũng nhớ nhiều.
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rượt bướm vàng bay
Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là con đo` nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông
Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm hè
Quê hương là vo`ng tay ấm
Con nằm ngủ giữa mưa đêm
Quê hương là đêm trăng tỏ
Hoa cau rụng trắng ngoài thềm.
Duy
Nhất
Viết xong ngày 11 tháng 7 năm 2004
Gởi đến Thầy Cô và bạn hữu những lời
thân thương và ưu ái nhất.